Discoverfullfeed | Lời Sống Hằng Ngày
fullfeed | Lời Sống Hằng Ngày
Claim Ownership

fullfeed | Lời Sống Hằng Ngày

Author: noreply@rbc.org

Subscribed: 2Played: 41
Share

Description

Vietnamese ODB | Our Daily Bread Ministries
116 Episodes
Reverse
Karen Huang Sáng Thế Ký 5:21-24 Hê-nóc cùng đi với Đức Chúa Trời. Sáng Thế Ký 5:24 Pedro tin nhận Chúa Jêsus khi ông đã 50 tuổi. Trước đó, ông là một người giận dữ, thù hận và hay làm tổn thương những người xung quanh. Khi được hội thánh tâm vấn và chăm sóc, ông bắt đầu cảm thấy ăn năn về quá khứ. Ông nói: “Thời gian còn lại của tôi ngắn ngủi hơn nhiều so với những năm đã trôi qua. Tôi muốn sống thật tốt quãng đời còn lại. Nhưng bằng cách nào?” Pedro tìm thấy câu trả lời từ một nơi ít ai ngờ tới, chính là bảng gia phả. Khi đọc phần Kinh Thánh Môi-se liệt kê dòng dõi của A-đam, ông nhận ra một câu được lặp lại nhiều lần là “[Ai] sống được [bao nhiêu] năm, rồi qua đời” (Sáng. 5:8,11,14,17,20,27,31). Nhưng có một người được mô tả khác hẳn. Hê-nóc được chép là người đã “đồng hành với Đức Chúa Trời” (c.22,24). Gần gũi với Chúa chính là cách ông sống cuộc đời mình trên thế gian này. Bởi đức tin, Hê-nóc “được chứng nhận là đã sống hài lòng Đức Chúa Trời” (Hê. 11:5). Hê-nóc có một đức tin vững vàng và bền bỉ nơi chính Chúa, và những điều Ngài sẽ làm cho người tìm kiếm Ngài (c.6). Ông bày tỏ đức tin nơi Đấng Toàn Năng qua hành động và một đời sống vâng phục Ngài. Chính nhờ đức tin ấy, Chúa đã cất ông lên và ông không phải trải qua sự chết (c.5). Pedro đã hỏi rằng: “Tôi có thể sống tốt quãng đời còn lại bằng cách nào?” Và câu trả lời là: bằng cách trung tín “đồng hành với Đức Chúa Trời”. Cuộc đời trên đất của chúng ta không chỉ gói gọn trong những con số. Cuộc đời ấy có thể được xác chứng bằng một đức tin để Chúa hành động vượt quá mọi điều ta có thể đong đếm. Trong đời sống bạn, “đồng hành với Đức Chúa Trời” có nghĩa là gì? Bạn cần làm gì để luôn hành động với đức tin nơi Ngài? Lạy Cha yêu dấu, Cha không tạo dựng con để bước đi đơn độc trên cuộc đời này. Xin giúp con luôn đồng đi một cách trung tín với Cha. Ê-xê-chi-ên 37–39; II Phi-e-rơ 2 “Đi” hay “bước đi” là hình ảnh ẩn dụ được sử dụng trong Kinh Thánh để mô tả đời sống đức tin giống như một hành trình. “Bước đi” có nghĩa là thực hiện những bước chân hướng đến đích đến mong muốn. Bước đi với Chúa là có mối tương giao và thông công với Ngài. Hê-nóc là người đầu tiên trong Kinh Thánh được mô tả là người “cùng đi với Đức Chúa Trời” (Sáng. 5:22,24). Nô-ê cũng “được ơn trước mặt Đức Giê-hô-va” và “cùng đi với Đức Chúa Trời” (6:8-9). Ẩn dụ về việc bước đi cũng được tiếp tục trong Tân Ước. Chúng ta phải “bước đi theo Thánh Linh” (Ga-la-ti 5:16), “bước đi trong tình yêu thương” (5:2), “bước đi trong ánh sáng” (I Gi. 1:7), “đi theo chân lý” (II Gi. 1:4) và “bước theo các điều răn của Ngài” (c.6). Để trung tín đi cùng Đức Chúa Trời, chúng ta phải “bước đi như chính Ngài đã bước đi” (I Gi. 2:6). K.T. Sim https://vietnamese-odb.org/Rqj
John Blase II Cô-rinh-tô 12:2-10 Một cái dằm đã đâm vào xác thịt tôi. II Cô-rinh-tô 12:7 Mary Flannery O’Connor được biết đến nhiều nhất qua bút danh Flannery O’Connor. Bà là một trong những cây bút tiêu biểu của miền Nam nước Mỹ, với nhiều truyện ngắn đầy đau thương nhưng cũng rất giàu ân điển. Khi người cha yêu dấu của bà qua đời vì bệnh lupus ban đỏ lúc bà chỉ mới 15 tuổi, O’Connor đau buồn đến mức bà dồn hết tâm huyết để viết cuốn tiểu thuyết đầu tay. Không lâu sau đó, chính bà cũng bị chẩn đoán mắc bệnh lupus, và căn bệnh nan y này đã cướp đi mạng sống của bà ở tuổi 39. Văn chương của O’Connor phản ánh nỗi đau đớn cả về thể xác lẫn tinh thần. Tiểu thuyết gia Alice McDermott nhận xét rằng: “Tôi nghĩ chính căn bệnh ấy đã làm nên một nhà văn tuyệt vời như bà”. Chúng ta không biết chính xác “cái dằm” mà sứ đồ Phao-lô nói đến là gì (II Cô. 12:7), dù có rất nhiều giả thuyết được đưa ra. Nhưng chúng ta biết rằng Phao-lô đã nói: “Đã ba lần tôi cầu nguyện xin Chúa cho nó lìa xa tôi” (c.8). Và chúng ta cũng biết Chúa đã không làm như vậy (c.9). Điều đó giúp Phao-lô trở nên khiêm nhu hơn. Ông viết rằng, cái dằm đó đã “giữ tôi khỏi kiêu ngạo” (c.7). Chính cái dằm ấy đã nhào nặn ông và khiến ông trở thành vị sứ đồ như chúng ta đã biết. Nhưng cái dằm không phải là tất cả, vì cùng với cái dằm, Chúa cũng ban cho ông ân điển đủ đầy và quyền năng được bày tỏ trọn vẹn trong sự yếu đuối, đến nỗi vị sứ đồ đang chịu đựng dày vò ấy có thể nói rằng: “khi tôi yếu đuối chính là lúc tôi mạnh mẽ” (c.10). Những “cái dằm” trong đời sống chúng ta, dù là gì đi nữa, đều giúp nhào nặn và góp phần tạo nên chính con người của chúng ta hôm nay. Nhưng những cái dằm ấy không phải là tất cả. Như Phao-lô, Flannery O’Connor và biết bao người khác xuyên suốt dòng lịch sử nhân loại đã kinh nghiệm, ân điển của Chúa luôn đầy đủ cho chúng ta. Đâu là “cái dằm” trong đời sống bạn? Bạn cần làm gì để ân điển và sức mạnh của Chúa trở nên đủ đầy cho bạn hôm nay? Lạy Chúa yêu dấu, cảm ơn Ngài vì ân điển của Ngài luôn đủ đầy cho con. Ê-xê-chi-ên 35–36; II Phi-e-rơ 1 Khi Phao-lô nói đến “tầng trời thứ ba” (II Cô-rinh-tô 12:2), ông muốn nói đến “Thiên Đàng” (c.4; KTHD) – nơi Đức Chúa Trời ngự. Khi kể lại khải tượng về thiên đàng, nơi ông nghe “những điều không thể nói ra” (c.4), ông đã chuyển hướng sự chú ý khỏi mình bằng những lời: “Tôi biết một người…” (c.2). Sứ đồ Phao-lô đã bị tác động sâu sắc bởi những điều kỳ diệu như vậy. Nhưng ông đối diện với nguy cơ trở nên tự tin thái quá vào kinh nghiệm của mình. Mục đích của “cái dằm đã đâm vào xác thịt [ông]” (c.7) là để giữ Phao-lô khiêm nhường và nương cậy nơi Đức Chúa Trời. Khi kinh nghiệm những thử thách, chúng ta cũng được đảm bảo về ân điển dư dật của Đức Chúa Trời. Tim Gustafson https://vietnamese-odb.org/Rqk
Karen Pimpo Phi-líp 3:1-9 Hơn thế, tôi cũng xem tất cả mọi sự như là lỗ, vì sự nhận biết Đấng Christ Jêsus, Chúa tôi, là quý hơn hết. Vì Ngài, tôi đành chịu lỗ tất cả. Phi-líp 3:8 Ngày 29 tháng 5 năm 1925, Percy Fawcett đã gửi bức thư cuối cùng cho vợ mình trước khi tiến sâu vào khu rừng chưa được khám phá ở Brazil. Trong nhiều năm, ông tìm kiếm một thành phố huyền thoại được đồn đại là vô cùng huy hoàng, với quyết tâm trở thành nhà thám hiểm đầu tiên công bố vị trí của nó cho cả thế giới. Nhưng đội của ông đã mất tích, thành phố ấy không bao giờ được tìm thấy, và nhiều đoàn thám hiểm sau đó cũng thất bại. Lòng can đảm và đam mê của Percy thật đáng khâm phục, nhưng cuối cùng lại bị phí hoài cho một thành phố đã mất. Thành thật mà nói, trong cuộc sống có không ít mục tiêu không thể chạm tới, nhưng lại có sức hút rất lớn đối với chúng ta. Thế nhưng, có một kho báu thật dành cho mỗi người, đáng để chúng ta tìm kiếm bằng cả tấm lòng, tâm trí và sức lực. Trong thư gửi các tín hữu ở thành Phi-líp, Phao-lô đã nói về điều này: “Tôi cũng xem tất cả mọi sự như là lỗ, vì sự nhận biết Đấng Christ Jêsus, Chúa tôi, là quý hơn hết” (Phil. 3:8). Không giống như một thành phố huyền thoại với những lời đồn đại về sự giàu sang, danh vọng hay quyền lực, việc nhận biết và tin cậy nơi Chúa Jêsus là một kho báu vô giá. Những mục tiêu trần gian như quyền lực, địa vị, hay thậm chí là tiếng tốt qua việc giữ gìn luật pháp của Chúa, đều chẳng là gì so với việc nhận biết Chúa Jêsus (c.6-7). Liệu chúng ta có đang dành thì giờ và sức lực cho những thứ không thể mang đến sự thỏa mãn thật không? Nguyện Chúa giúp chúng ta xét lại bản thân, liệu mình có đang đeo đuổi điều đúng đắn. Bạn đang tìm kiếm kho báu nào hôm nay? Khi suy ngẫm về giá trị của việc nhận biết Chúa Jêsus, bạn sẽ sắp xếp lại ưu tiên trong đời sống ra sao? Chúa Jêsus ơi, cảm ơn Ngài vì con không cần phải chạy theo những điều không thể mang đến sự thỏa mãn thật. Điều quý giá nhất đối với con là được biết Ngài. Ê-xê-chi-ên 33–34; I Phi-e-rơ 5 Phao-lô được học dưới chân Ga-ma-li-ên, một người có thẩm quyền hàng đầu trong Do Thái giáo (Công Vụ 5:34) và được “giáo dục một cách nghiêm ngặt về luật pháp của tổ tiên” (22:3). Ông là một người Pha-ri-si xuất sắc, người có học vấn và kiến thức về tôn giáo mà những người cùng thời không thể sánh bằng (Phi-líp 3:4-6). Nhưng ông coi “tất cả mọi sự như là lỗ, vì sự nhận biết Đấng Christ Jêsus, Chúa tôi, là quý hơn hết” (c.8). Bởi vì biết rằng Chúa Jêsus chính là chìa khóa để sống một đời sống tin kính trong Ngài, sứ đồ Phao-lô đặt ra mục tiêu cho đời sống mình là “được biết Ngài, quyền năng phục sinh của Ngài” (c.10). Khi bị cám dỗ tìm kiếm sự thỏa mãn trong những điều thuộc về đời này, chúng ta có thể nhớ rằng việc kinh nghiệm đời sống trọn vẹn đơn giản chỉ là “nhận biết Cha là Đức Chúa Trời duy nhất và chân thật, cùng Đức Chúa Jêsus Christ” (Gi. 17:3). K.T. Sim https://vietnamese-odb.org/Rqi
Katara Patton Châm Ngôn 22:1-6 Hãy dạy cho trẻ thơ con đường nó phải theo, để khi trở về già, nó cũng không lìa khỏi đó. Châm Ngôn 22:6 Vào dịp Lễ Tạ Ơn, tôi gọi về nhà để chúc mừng cha mẹ. Trong lúc trò chuyện, tôi hỏi mẹ điều gì khiến bà thấy biết ơn nhất. Bà vui mừng nói rằng, điều bà luôn cảm tạ chính là “cả ba đứa con của mẹ đều biết kêu cầu danh Chúa”. Mẹ tôi là người luôn coi trọng việc học hành, nhưng đối với bà vẫn có điều còn quý hơn cả chuyện con cái học giỏi hay thành đạt có thể tự lo cho cuộc sống của mình. Lời chia sẻ của mẹ khiến tôi nhớ đến Châm Ngôn 22:6: “Hãy dạy cho trẻ thơ con đường nó phải theo, để khi trở về già, nó cũng không lìa khỏi đó”. Đây không phải là một lời hứa tuyệt đối mà là một nguyên tắc khôn ngoan. Trên thực tế, nhiều đứa trẻ được nuôi dạy trong gia đình tin kính, khi lớn lại xa rời Chúa. Cha mẹ tôi đã nỗ lực dạy dỗ chúng tôi biết yêu kính và khiêm nhu bước đi với Chúa (c.4), chủ yếu bằng cách làm gương cho chúng tôi. Giờ đây, bởi ân điển Ngài, cha mẹ được chứng kiến chúng tôi trưởng thành và sống trong mối tương giao cá nhân với Chúa. Có những người con nhanh chóng đáp lại lời dạy yêu thương trong Đấng Christ, nhưng cũng có những người phải mất nhiều thời gian hơn mới chịu lắng nghe tiếng Ngài. Với những người con như thế, chúng ta cứ tiếp tục cầu nguyện và an tâm chờ đợi thời điểm của Chúa. Lòng khiêm nhường biết ơn của mẹ tôi đã chỉ ra điều quan trọng nhất trong cuộc sống, chính là sự yêu kính Chúa. Điều đó sẽ đem lại sự giàu có thuộc linh cho chúng ta cả trong hiện tại lẫn cõi đời đời (c.4). Dù chúng ta không thể kiểm soát những chọn lựa của con cái, nhưng hãy vững lòng tin rằng Chúa vẫn đang hành động cách yêu thương trong lòng các con. Ai là người đã bày tỏ tình yêu thương của Chúa cho bạn? Bạn yêu kính Ngài ra sao? Lạy Chúa, xin giúp con sống yêu thương và trung tín gây dựng người khác. Ê-xê-chi-ên 30–32; I Phi-e-rơ 4 Thật thú vị khi người đã thu thập hoặc viết hầu hết những câu nói trong sách Châm Ngôn (vua Sa-lô-môn) cũng là người được cho là đã viết sách Truyền Đạo. Về cơ bản, những câu châm ngôn này nói rằng: Làm điều này, và sẽ nhận được kết quả kia. Làm điều khôn ngoan và nhận kết quả tốt đẹp; làm điều dại dột sẽ phải trả giá. Tuy nhiên, Sa-lô-môn viết trong sách Truyền Đạo: “Càng nhiều khôn ngoan, càng thêm phiền não” (1:18). Dù vậy, trong sách Châm Ngôn, ông nói: “Hãy tìm cầu sự khôn ngoan; Hãy dùng hết những gì con có mà mua sự thông sáng” (4:7). Sách Truyền Đạo cho chúng ta thấy sự hư không của cuộc sống nếu không có Chúa làm chủ; sách Châm Ngôn hướng dẫn chúng ta cách thức và lý do để sống khôn ngoan. Vì vậy, chúng ta sống theo sự khôn ngoan trong sách Châm Ngôn: “Danh tiếng tốt quý hơn tiền của nhiều” (22:1) và “Ai kính sợ Chúa Hằng Hữu và khiêm nhường được hưởng danh dự, công lý, và trường thọ” (c.4, BHĐ). Đây là một chân lý sẽ được chứng minh trọn vẹn trong đời sau. Tim Gustafson https://vietnamese-odb.org/Rqh
Alyson Kieda E-xơ-ra 3:1, 4-6, 9-11 Rồi toàn dân đồng thanh hô lớn, ca ngợi Đức Giê-hô-va. E-xơ-ra 3:11 Thuở bé, tôi rất yêu thích bài thánh ca “Hãy đếm các ơn phước Chúa ban”. Bài hát khích lệ những ai đang bị “sóng gió” bủa vây, hay “cảm thấy mất cả mọi điều đời nay”, hãy “đếm các phước lành Cha luôn ban… kể ra ơn lành từng tên”. Nhiều năm sau, khi chồng tôi là Alan cảm thấy nản lòng, anh thường bảo tôi hát bài thánh ca đơn sơ ấy cho anh nghe. Sau đó, tôi sẽ cùng anh đếm những ơn lành mà Chúa đã ban. Điều đó giúp chồng tôi ngừng tập trung vào những tranh chiến và hoài nghi của bản thân, để tập chú vào Chúa và những lý do giúp anh biết ơn Ngài. Sách E-xơ-ra thuật lại hành trình dân sự Chúa đối diện với nghịch cảnh bằng cách chăm nhìn nơi quyền năng và sự tiếp trợ của Ngài. Sau nhiều thập kỷ bị lưu đày tại Ba-by-lôn, vua Si-ru cho phép dân Do Thái từ xứ lưu đày trở về Y-sơ-ra-ên để xây lại đền thờ (Exr. 1–2). Chỉ một bộ phận nhỏ dân sự quay trở về (2:64). Dù “sợ các dân trong xứ” và phải đối mặt với một nhiệm vụ lớn lao, họ vẫn tiến hành xây lại bàn thờ và đặt nền móng cho đền thờ (3:3,10). Rồi “họ ca hát đối đáp nhau mà tôn vinh và cảm tạ Đức Giê-hô-va rằng: ‘Ngài thật tốt lành, lòng thương xót của Ngài đối với Y-sơ-ra-ên còn đến đời đời!’ Rồi toàn dân đồng thanh hô lớn, ca ngợi Đức Giê-hô-va” (3:11). Nếu bạn đang nản lòng hay đang đối mặt với những trở ngại tưởng chừng không thể vượt qua, hãy hướng tâm trí mình về Chúa. “Hãy đếm ơn trên, hãy kể tên linh ân, chắc chắn [bạn] sẽ thấy các công tác Cha đã làm”, và vẫn đang tiếp tục làm cho những ai yêu mến Ngài. Việc đếm các ơn phước Chúa ban khích lệ bạn như thế nào trong hoàn cảnh khó khăn? Bạn biết ơn Chúa về điều gì? Lạy Chúa yêu thương, xin giúp con biết cảm tạ và ca ngợi Ngài vì chính Ngài và vì mọi điều Ngài đã làm cho con. Ê-xê-chi-ên 27–29; I Phi-e-rơ 3 Sự ngợi khen được ký thuật trong E-xơ-ra 3:10-11 rất đặc biệt. Sau nhiều thập kỷ lưu đày ở đất khách, dân sự của Đức Chúa Trời được trở về quê hương, ứng nghiệm lời tiên tri của Giê-rê-mi: “Ta sẽ… đem các con về từ chốn lưu đày. Ta sẽ tập hợp các con lại từ mọi nước và mọi nơi mà Ta đã đuổi các con đến. Ta sẽ đem các con về nơi mà từ đó Ta đã lưu đày các con” (Giê. 29:14). Mặc dù công việc trước mắt họ có nhiều khó khăn và vất vả, sự hiện diện của nền đền thờ (Exr. 3:10-13) là một lời nhắc nhở trực quan rằng Đức Chúa Trời luôn giữ lời hứa của Ngài. Khi gặp thất vọng trong cuộc sống hoặc đối diện với nhiều thử thách, chúng ta hãy dừng lại và nhớ đến những việc Chúa đã làm. Lòng biết ơn vì sự thành tín của Ngài sẽ giúp chúng ta có thêm động lực trong tương lai. Arthur Jackson https://vietnamese-odb.org/Rqg
Kêu Cầu Chúa

Kêu Cầu Chúa

2025-10-25--:--

Patricia Raybon I Sa-mu-ên 7:7-12 Đức Giê-hô-va đã cứu giúp chúng ta cho đến bây giờ. I Sa-mu-ên 7:12 Lúc còn trẻ, tôi từng nghĩ mình không nên cầu xin Chúa giúp mình kịp hạn nộp bản thảo. Tôi tự nhủ rằng, có nhiều người cần Ngài hơn mình – chuyện gia đình, vấn đề sức khỏe, công việc bấp bênh hay khó khăn tài chính. Nhưng việc nộp bài đúng hạn dường như quá nhỏ nhặt để trình dâng lên Chúa. Rồi tôi đã thay đổi quan điểm, sau khi đọc nhiều ví dụ trong Kinh Thánh cho thấy Chúa luôn giúp đỡ con dân Ngài, bất kể họ đang đối mặt với nan đề gì. Sách I Sa-mu-ên thuật lại câu chuyện rằng, dân Y-sơ-ra-ên hoảng hốt khi đối diện với cuộc tấn công của người Phi-li-tin tại Mích-pa. “Họ nói với Sa-mu-ên: ‘Xin ông không ngừng kêu cầu Giê-hô-va Đức Chúa Trời cho chúng tôi, để Ngài giải cứu chúng ta khỏi tay người Phi-li-tin’” (I Sam. 7:8). Đáp lại, Sa-mu-ên dâng lên cho Chúa một con chiên làm của lễ thiêu và kêu cầu thay cho dân sự, “và Đức Giê-hô-va nhậm lời ông” (c.9). “Trong lúc Sa-mu-ên dâng tế lễ thiêu, người Phi-li-tin kéo đến gần để giao chiến với Y-sơ-ra-ên. Nhưng trong ngày đó Đức Giê-hô-va khiến sấm sét nổ vang trên người Phi-li-tin, làm cho chúng hỗn loạn, và chúng bị đánh bại trước mặt người Y-sơ-ra-ên” (c.10). Sau đó, “Sa-mu-ên lấy một tảng đá đặt giữa Mích-pa và Sen, đặt tên là Ê-bên Ê-xe, vì ông nói: ‘Đức Giê-hô-va đã cứu giúp chúng ta cho đến bây giờ’” (c.12). Sa-mu-ên dựng tảng đá đó để ghi nhớ sự cứu giúp của Chúa trên dân Ngài. Ê-bên Ê-xe có nghĩa là “Tảng đá giúp đỡ”. Chẳng bao giờ là sai khi chúng ta kêu cầu Chúa giúp đỡ. Vậy hôm nay, hãy kêu cầu Ngài. Bạn đang cần Chúa giúp đỡ điều gì? Vì sao việc kêu cầu Ngài lại quan trọng đến thế? Lạy Chúa yêu thương, hôm nay con xin Ngài giúp đỡ con. Con thật sự cần Ngài! Ê-xê-chi-ên 24–26; I Phi-e-rơ 2 Trong văn chương Hê-bơ-rơ, một “cặp từ” chỉ về hai từ riêng biệt nhưng có mối liên hệ chặt chẽ, thường được dùng cùng nhau để làm nổi bật một ý tưởng. Trong I Sa-mu-ên 7 (BD2011), chúng ta thấy một cặp từ phổ biến là “giải thoát” (c.3; tiếng Hê-bơ-rơ là natsal) và “cứu” (c.8; tiếng Hê-bơ-rơ là yasha). Từ “giải thoát” diễn đạt ý tưởng Đức Chúa Trời giải cứu khỏi tình huống nguy hiểm ngay trước mắt, trong khi từ “cứu” chỉ về một chiến thắng bền vững tối hậu. Trong I Sa-mu-ên 7, Sa-mu-ên kêu gọi dân sự của Đức Chúa Trời tin cậy Ngài sẽ “giải thoát” (c.3) và “cứu” họ khỏi dân Phi-li-tin (c.8). Cùng với nhau, cặp từ này chỉ ra nhu cầu cầu xin Đức Chúa Trời giúp đỡ khi chúng ta đối diện với thử thách và phó thác cả hoàn cảnh trước mắt, sự an ninh tối hậu, cùng sự cứu chuộc cuối cùng trong tay Ngài. Monica Brands https://vietnamese-odb.org/Rqa
Tom Felten Giê-rê-mi 25:4-11 Đức Giê-hô-va phán: “Nhưng các ngươi chẳng nghe Ta”. Giê-rê-mi 25:7 Năm 2020, Alida làm xét nghiệm ADN và bất ngờ phát hiện kết quả trùng khớp cao với một người đàn ông sống cách cô nửa vòng nước Mỹ. Sau đó, cô cùng các con gái lần theo những bài báo cũ từ thập niên 1950, và đi đến kết luận rằng người đàn ông ấy chính là Luis, người cậu mà Alida đã mất liên lạc từ rất lâu! Ông bị bắt cóc tại một công viên vào năm 1951, khi mới sáu tuổi. Xét nghiệm ADN ấy, được thực hiện sau 70 năm kể từ khi Luis mất tích, đã giúp ông được đoàn tụ với những người thân ruột thịt. Alida nói: “Tôi mong rằng câu chuyện của chúng tôi sẽ khích lệ những gia đình khác… Tôi muốn nói rằng: đừng bao giờ từ bỏ hy vọng”. 70 năm là một khoảng thời gian rất dài đến nỗi khó mà giữ vững hy vọng. Tiên tri Giê-rê-mi và dân Giu-đa hẳn đã rất đau lòng và sợ hãi khi Chúa phán rằng họ “sẽ phải phục dịch vua Ba-by-lôn trong bảy mươi năm” (Giê. 25:11). Nhưng vì họ đã không vâng lời Chúa, không chịu từ bỏ “đường lối gian ác và những hành vi sai trái” (c.5), khiến họ trở thành “một vật đáng tởm, một trò cười” (c.9). Dân sự đã bị Chúa quở trách hơn 30 lần trong sách Giê-rê-mi vì không chịu lắng nghe Ngài. 70 năm cảm giác dài đằng đẵng, nhưng Đức Chúa Trời vẫn ở với họ, và Ngài hứa rằng thời kỳ khó khăn ấy rồi sẽ kết thúc (29:10). Khi trải qua những giai đoạn thử thách tưởng chừng kéo dài vô tận, hãy nhớ rằng: Dù đôi lúc chúng ta thấy khó giữ vững đức tin nơi Chúa, Ngài vẫn hứa sẽ luôn ở cùng và yêu thương chúng ta (30:11). Khi lắng nghe Ngài và chờ đợi với lòng trông cậy, chúng ta sẽ tìm thấy hy vọng. Làm sao bạn có thể vượt qua những thời điểm khó khăn?? Bạn tìm thấy sự an ủi nào trong những lời hứa của Chúa? Lạy Chúa yêu thương, xin giúp con tìm được hy vọng nơi Ngài. Ê-xê-chi-ên 22–23; I Phi-e-rơ 1 Dân Giu-đa vẫn cứng lòng không ăn năn, kiên quyết từ chối tin cậy nơi Đức Chúa Trời và phớt lờ lời cảnh báo của Ngài về hình phạt dành cho tội thờ thần tượng của họ (Giê. 25:3-7). Quân Ba-by-lôn sẽ đến và biến đất nước của họ thành hoang mạc hoang vu, và dân sự sẽ bị lưu đày ở Ba-by-lôn trong bảy mươi năm (c.8-11). Nhưng Đức Chúa Trời không bỏ mặc họ. Ngài đảm bảo với họ về sự hiện diện và tình yêu thương của Ngài: “Đừng sợ vua Ba-by-lôn,… vì Ta ở với các ngươi để cứu vớt và giải thoát các ngươi... Ta sẽ thương xót các ngươi… và cho các ngươi trở về đất nước mình” (42:11-12). Dù đang đối diện với hoàn cảnh nào hôm nay, chúng ta đều có thể tin cậy nơi Đức Chúa Trời, biết rằng Ngài luôn yêu thương và ở cùng chúng ta. K.T. Sim https://vietnamese-odb.org/Rq9
Mike Wittmer Mác 5:1-6, 12-13, 18-20 Nhưng Đức Chúa Jêsus… bảo: “Hãy về nhà, đến với những người thân và thuật lại cho họ những điều lớn lao mà Chúa đã làm cho con.” Mác 5:19 Mario là một thanh niên 28 tuổi nghiện ma túy đá và nghiện rượu, anh phải đi tù vì tội trộm cắp. Khi tuyên án, thẩm phán nói rằng anh đã “phí hoài cuộc đời mình”. Chính Mario cũng ngậm ngùi đồng ý. Trong thời gian thụ án, một lần nọ, anh thấy người ta quảng cáo về một cuộc thi viết báo. Điều đó khơi gợi sự tò mò trong Mario, và anh đăng ký chương trình học từ xa của một trường đại học gần đó. Anh bị cuốn hút. Mario đam mê công việc viết các bản tin, và sau khi mãn hạn tù, anh hoàn tất chương trình thạc sĩ ngành báo chí và hiện đang viết bài cho tờ The New York Times. Cuộc đời anh không còn phí hoài nữa! Cuộc đời của người bị quỷ ám sống trong nghĩa địa cũng có vẻ như là phí hoài trong mắt người đời. Người dân dùng xiềng xích để trói anh ta lại để bảo vệ chính anh lẫn chính họ, nhưng “anh ta đều bẻ xiềng tháo cùm, không ai đủ sức chế ngự được” (Mác 5:4). Anh ta bỏ chạy về lại nơi mồ mả, “cả ngày lẫn đêm anh ta cứ… la hét, rồi lấy đá đánh bầm mình” (c.5). Nhưng rồi đời sống anh ta đã hoàn toàn thay đổi. Chúa Jêsus đuổi hết những tà linh ra khỏi anh ta và phục hồi để anh hòa nhập cộng đồng trở lại. Mọi người đều kinh ngạc khi thấy anh “đang ngồi đó, mặc quần áo và tâm trí tỉnh táo” (c.15). Lòng đầy biết ơn, anh muốn đi theo Chúa Jêsus, nhưng Ngài bảo anh: “Hãy về nhà, đến với những người thân và thuật lại cho họ những điều lớn lao mà Chúa đã làm cho con, và Ngài đã thương xót con như thế nào” (c.19). Sứ mạng của người ấy cũng là sứ mạng của chúng ta. Hãy rao truyền về Đấng Christ. Nhờ ân điển của Ngài, không có cuộc đời nào là phí hoài cả. Chúa Jêsus đã cứu bạn khỏi điều gì? Nếu không có Ngài, bạn sẽ ra sao? Lạy Cha, con cảm tạ Cha vì giá trị lớn lao mà con có trong Ngài. Ê-xê-chi-ên 20–21; Gia-cơ 5 Người đàn ông “bị uế linh ám” đã khiến cộng đồng khiếp sợ (Mác 5:3-4), nhưng Đấng Christ đã giải cứu anh, tỏ lòng thương xót với anh khi Ngài đối đầu với ma quỷ. Mác viết: “Khi [người đàn ông này] thấy Đức Chúa Jêsus từ đằng xa, anh ta chạy đến, sấp mình trước mặt Ngài” (c.6). Vì sao một người bị ma quỷ khống chế lại chạy đến với Đấng Christ, kẻ thù của Sa-tan? Có lẽ bởi vì ma quỷ cũng bị thôi thúc, không thể cưỡng lại việc tôn thờ “Con Đức Chúa Trời Chí Cao” (c.7). Cũng như Chúa Jêsus đã chứng minh cho người bị quỷ ám thấy rằng mạng sống của anh có giá trị vô cùng, chúng ta cũng được nhắc nhở rằng trong Đấng Christ, mỗi chúng ta đều được yêu thương và quý giá không thể đo lường. Tim Gustafson https://vietnamese-odb.org/Rq8
Tài Sản Quý Giá

Tài Sản Quý Giá

2025-10-25--:--

Sheridan Voysey Giăng 12:1-8 Ma-ri lấy một cân dầu cam tùng nguyên chất rất quý giá xức chân Đức Chúa Jêsus, rồi dùng tóc mình lau chân Ngài. Giăng 12:3 Cha tôi nhìn thấy mẹ tôi lần đầu trong một buổi tiệc ở Luân Đôn. Sau đó, ông lén tham dự một buổi tiệc khác, rồi tự tổ chức buổi tiệc thứ ba, chỉ để được gặp lại bà. Cuối cùng, ông mời mẹ tôi đi một chuyến dạo chơi và đón bà bằng chiếc xe Rover cũ, là món tài sản mà ông vô cùng trân quý. Rồi cha mẹ tôi hẹn hò, nhưng hai người có một trở ngại. Mẹ tôi sắp chuyển đến Pê-ru làm giáo sĩ. Cha tôi tiễn bà ra sân bay, và năm tháng sau, ông xuất hiện tại Pê-ru để cầu hôn bà. Và điều tuyệt vời nhất trong câu chuyện là, ông đã bán chiếc xe Rover yêu dấu để mua vé máy bay. Nếu bạn hỏi Ma-ri, em gái của Ma-thê và La-xa-rơ rằng tài sản quý giá nhất của cô là gì, thì có lẽ cô sẽ đưa ra một chai dầu thơm đắt giá (Giăng 12:3). Và nếu bạn có mặt tại bữa tiệc mà Ma-ri và Ma-thê tổ chức cho Chúa Jêsus (c.2), chứng kiến cô đổ toàn bộ dầu đó lên chân Ngài, thì bạn sẽ hiểu được Chúa có ý nghĩa thế nào với cô. Ngài quý báu đến thế, Ngài đáng trân trọng đến thế. Vì mẹ tôi, cha đã bán chiếc xe không chỉ là để mua một tấm vé máy bay, đó là dấu hiệu cho thấy ông yêu quý mẹ tôi đến dường nào. Và hành động của Ma-ri cũng mang ý nghĩa sâu sắc như thế, Chúa Jêsus nói cô đang chuẩn bị cho ngày chôn cất Ngài (c.7). Giống như Ma-ri, khi chúng ta dâng cho Chúa điều quý giá nhất của mình, chúng ta đang góp phần vào công tác cứu chuộc của Ngài. Và hành động đó phản chiếu sự hy sinh vĩ đại mà Ngài đã dành cho chúng ta. Bạn sẵn sàng dâng điều quý giá nào cho Chúa? Nếu là Ma-ri, bạn sẽ cảm thấy thế nào khi được Chúa Jêsus khen ngợi hành động của mình? Lạy Chúa Jêsus, Ngài quý giá hơn tất cả những gì con trân trọng nhất trên đời này. Ê-xê-chi-ên 18–19; Gia-cơ 4 Qua những hành động của mình, Ma-ri, người làng Bê-tha-ni đã cho thấy rằng đối với bà, Chúa Jêsus là Đấng đáng cho bà tôn kính. Có một số điều đáng chú ý trong câu chuyện này. Lòng kính mến của bà rất đắt giá: “Ma-ri lấy một cân dầu cam tùng nguyên chất rất quý… giá khoảng một năm làm công” (Giăng 12:3, 5; BHĐ). Hơn thế nữa, mùi dầu thơm đó (c.3) sánh ngang với hương thơm của lòng kính mến của bà đối với Đấng Christ. Nhưng khung cảnh ấn tượng của lòng tôn kính đắt giá đã bị phá vỡ bởi lời của Giu-đa Ích-ca-ri-ốt. Ông hỏi: “Sao không bán dầu thơm nầy lấy ba trăm đơ-ni-ê để cho người nghèo?” (c.5). Giu-đa, người sau này sẽ phản bội Chúa Jêsus (c.4), là một kẻ lừa dối, ông che đậy động cơ của mình bằng những lời lẽ đạo đức (c.5); ông là kẻ giả hình và là một tên trộm (c.6), người đã bán Chúa với giá ba mươi miếng bạc (khoảng 4 tháng lương). Nhưng Chúa Jêsus đã kết thúc vấn đề bằng câu trả lời: “Hãy để cô ấy yên” (c.7). Đấng Christ, Đấng đã phó mọi sự vì chúng ta, vẫn hằng mong muốn chúng ta yêu mến Ngài hơn tất cả mọi sự. Arthur Jackson https://vietnamese-odb.org/Rq7
Chúa Hằng Dõi Theo

Chúa Hằng Dõi Theo

2025-10-25--:--

Nancy Gavilanes Thi Thiên 121 Ngài không để cho chân ngươi trượt ngã; Đấng gìn giữ ngươi không hề buồn ngủ. Thi Thiên 121:3 Hai phi công đã ngủ gật giữa chuyến bay khi đang bay qua vùng trời In-đô-nê-si-a. Dù cơ trưởng được phép chợp mắt sau khi máy bay đạt được độ cao hành trình, nhưng khi tỉnh dậy, ông phát hiện cơ phó cũng đã thiếp đi. Cả hai đã ngủ khoảng 30 phút, trong khi trên máy bay có hơn 150 hành khách và phi hành đoàn, và độ cao lúc đó là khoảng 11 km. Máy bay đã lệch khỏi hành trình, nhưng tạ ơn Chúa, chuyến bay vẫn hạ cánh an toàn tại điểm đến. Cơ trưởng có thể ngủ quên giữa chuyến bay, nhưng chúng ta hãy yên lòng vì Chúa không bao giờ ngủ quên. Đó chính là sự an ủi mà Thi Thiên 121 đem lại cho chúng ta. Trong tám câu ngắn, chúng ta được nhắc nhở rằng Chúa là Đấng toàn tri, biết mọi điều trong cuộc đời chúng ta; Ngài cũng là Đấng toàn tại, hiện diện trong từng giây phút cuộc đời chúng ta; và Ngài là Đấng toàn năng, có thể bảo vệ chúng ta. Tác giả Thi Thiên khẳng định rằng sự giúp đỡ của chúng ta đến từ Chúa (c.2). Ngài là Đấng che chở cho chúng ta (c.5), Ngài bảo vệ chúng ta khỏi mọi điều ác và giữ gìn linh hồn chúng ta (c.7). Chúa không bao giờ mỏi mệt. “Ngài không để cho chân ngươi trượt ngã; Đấng gìn giữ ngươi không hề buồn ngủ” (c.3). Tác giả Thi Thiên kết luận rằng: “Đức Giê-hô-va sẽ gìn giữ ngươi khi ra khi vào, từ nay cho đến đời đời” (c.8). Khi chúng ta nghi ngờ liệu Chúa có quên mình không, thì hãy yên lòng tin tưởng rằng Ngài vẫn đang cầm chắc tay lái. Ngài luôn tỉnh thức và dõi theo chúng ta. Vì sao đôi khi bạn cảm thấy như Chúa đang ngủ quên? Bạn được yên ủi ra sao khi biết rằng Ngài luôn tỉnh thức, và thấy rõ mọi điều bạn đang trải qua? Lạy Chúa Toàn Năng, con tạ ơn Chúa vì Ngài luôn dõi theo và gìn giữ con. Ê-xê-chi-ên 16–17; Gia-cơ 3 Hàng năm, tất cả người nam trưởng thành trong dân Y-sơ-ra-ên phải lên đền thờ để dự ba kỳ lễ quan trọng (Phục Truyền 16:16). Đây là một hành trình nguy hiểm, dễ gặp nạn bởi địa hình núi non hiểm trở, thời tiết, thú dữ và cướp bóc. Trên đường đến Giê-ru-sa-lem, họ thường hát 15 thi thiên trong tuyển tập Bài ca đi lên từng bậc (Thi Thiên 120–134). Thi Thiên 121 là một trong những bài ca đó. Thi Thiên này thừa nhận những mối lo lắng về sự an toàn và an ninh của dân Y-sơ-ra-ên, đồng thời nhấn mạnh sự bảo vệ của Đức Chúa Trời dành cho họ. Thi Thiên này nổi bật với động từ shamar trong tiếng Hê-bơ-rơ, được dịch là “gìn giữ” (c.3, 4, 5, 7, 8) hoặc “bảo vệ” (c.7, BPT). Từ này có nghĩa là “bảo tồn”, “canh giữ”, “canh chừng cẩn mật”, “chăm sóc”. Khi gặp nguy hiểm và đối diện với sự bất định trong cuộc sống, chúng ta có thể đảm bảo rằng mình đang ở trong sự gìn giữ của Đức Chúa Trời. Ngài luôn đồng hành, bảo vệ chúng ta trong sự quan phòng của Ngài. K.T. Sim https://vietnamese-odb.org/Rq6
Arthur Jackson Rô-ma 12:3-8 Đừng nghĩ quá cao về chính mình, nhưng phải suy nghĩ đúng mực. Rô-ma 12:3 Bạn có bao giờ cảm thấy mình là kẻ giả tạo không? Không phải một mình bạn thấy vậy đâu! Vào cuối những năm 1970, hai nhà nghiên cứu đã định nghĩa khái niệm “hội chứng kẻ mạo danh” là trạng thái tâm lý khi một người nghi ngờ khả năng, tố chất hoặc năng lực của chính mình và cảm thấy mình là kẻ giả tạo. Ngay cả những người thành công và xuất chúng cũng từng tranh đấu với cảm giác thiếu sót, lo sợ rằng nếu ai đó nhìn thấy phía sau bức bình phong cuộc đời họ, thì người đó sẽ nhận ra họ thật sự chẳng hiểu biết gì nhiều. Sứ đồ Phao-lô đã khuyên dạy các tín hữu ở Rô-ma hãy sống khiêm nhường: “Đừng nghĩ quá cao về chính mình, nhưng phải suy nghĩ đúng mực” (Rô. 12:3). Chúng ta hiểu rằng mình không nên kiêu ngạo về khả năng của bản thân. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta phải nghi ngờ giá trị của mình, để rồi bỏ lỡ những ân tứ Chúa muốn chúng ta sử dụng để phục vụ Ngài. “Suy nghĩ đúng mực” về bản thân (c.3) nghĩa là có một cái nhìn tỉnh táo, đánh giá một cách thực tế về những điều mình có thể dâng lên cho Chúa. Phao-lô khích lệ chúng ta vượt qua sự do dự, chấp nhận chính con người mình “tùy theo lượng đức tin mà Đức Chúa Trời đã ban cho [mỗi chúng ta]” (c.3). Nhờ đó, thân thể của Đấng Christ tức là Hội Thánh Ngài sẽ được gây dựng (c.4-8). Thay vì tự hạ thấp mình bởi “hội chứng kẻ mạo danh”, hãy đón nhận những ân tứ Chúa đã đặt để trong chúng ta. Khi tiếp nhận ân điển Ngài với tấm lòng biết ơn, chúng ta sẽ không nghĩ quá cao hoặc quá thấp về bản thân. Và như thế, chúng ta làm vui lòng Cha và gây dựng thân thể Đấng Christ. Bạn đang tranh đấu với “hội chứng kẻ mạo danh” ở khía cạnh nào? Chúa đã thêm lên cho bạn đức tin để vượt qua chuyện này như thế nào? Lạy Chúa, xin giúp con nhìn nhận bản thân theo cách mà Ngài nhìn nhận con, tùy theo lượng đức tin mà Ngài đã ban cho con. Ê-xê-chi-ên 14–15; Gia-cơ 2 Phao-lô kêu gọi chúng ta có “suy nghĩ đúng mực” (Rô. 12:3), tùy theo khả năng và ân tứ của mình, trước khi ông so sánh Hội Thánh của Đấng Christ với “một thân thể… có nhiều chi thể” (c.4). Mọi điều chúng ta có được là một món quà, bao gồm cả đức tin (c.3) và những ân tứ (c.6-8). Cách tự nhận thức đúng đắn nhất là biết rằng: chúng ta rất quý giá trong mắt Chúa, nhưng không phải là trung tâm của mọi sự. Chúng ta rất quý giá vì được tạo dựng theo hình ảnh của Đức Chúa Trời và được cứu chuộc qua sự chết của Con Ngài. Nhưng chúng ta không phải là trung tâm vì mọi khả năng và ân tứ của chúng ta đều đến từ chính Chúa, Ngài trang bị cho mọi tín hữu để hầu việc Ngài và phục vụ người khác. Nhưng điều quan trọng là các tín hữu phải đồng công với nhau, như một thân thể. Sự phụ thuộc lẫn nhau như vậy đòi hỏi phải có tình yêu thương – đây cũng chính là chủ đề mà sứ đồ Phao-lô nhấn mạnh trong phần tiếp theo. Ông viết: “tình yêu thương phải thành thật” (c.9). Khi nhận lấy ân điển của Chúa, chúng ta phải nhìn nhận bản thân mình như cách Ngài nhìn chúng ta và “yêu thương nhau thân thiết như anh em; hãy hết lòng kính nhường nhau” (c.10). Tim Gustafson https://vietnamese-odb.org/RpY
Hãy Cầu Nguyện

Hãy Cầu Nguyện

2025-10-25--:--

Leslie Koh Thi Thiên 6:4-10 Đức Giê-hô-va đã nghe lời ta khẩn nguyện, Ngài nhậm lời ta tha thiết kêu cầu. Thi Thiên 6:9 Dự án tôi đang nhận làm không được suôn sẻ lắm. Khách hàng liên tục đòi hỏi những điều dường như bất khả thi, còn tôi thì căng thẳng và nản lòng. Phản ứng đầu tiên của tôi là muốn bỏ cuộc, nhưng như vậy cũng đồng nghĩa với việc tôi sẽ không được trả công cho phần việc đã làm, và cũng đánh mất cơ hội cộng tác với họ trong các dự án sau này. Rồi một ý nghĩ chợt đến với tôi: Bạn đã cầu nguyện với Chúa chưa? Tôi tự trách mình sao có thể quên cầu xin Chúa giúp đỡ được chứ! Thế là tôi cầu nguyện… rồi lập tức tôi cảm thấy được nhẹ lòng. Tình hình vẫn không thay đổi, dự án vẫn còn đầy thách thức, nhưng tôi cảm nhận được một sự bình an tuôn đổ. Giờ đây tôi biết mình có thể an tâm rằng: tôi sẽ làm hết sức có thể và phó thác kết quả trong tay Chúa. Có lẽ vua Đa-vít cũng từng cảm thấy như vậy, khi vua dâng nỗi sợ hãi và lo lắng lên cho Chúa. Phần đầu của Thi Thiên 6, Đa-vít đã diễn tả nỗi đau đớn khi bị kẻ thù dồn ép (c.3,7). Nhưng khi không ngừng kêu cầu Chúa giải cứu mình, vua được vững lòng mà thốt lên rằng: “Đức Giê-hô-va đã nghe lời ta khẩn nguyện, Ngài nhậm lời ta tha thiết kêu cầu” (c.9). Lẽ thật ấy cho vua niềm hy vọng rằng mình sẽ được giải cứu, trong thời điểm và theo cách thức của Chúa (c.10). Cầu nguyện không phải là giải pháp giúp chúng ta thấy khá hơn, mà là kết nối trực tiếp với Đấng toàn tri và toàn năng, là Đấng sẽ giúp chúng ta vào đúng thời điểm và theo thánh ý của Ngài. Bạn có đang buồn bã hay nản lòng không? Hãy cầu nguyện với Chúa, vì Ngài đang lắng nghe bạn. Bạn đang đối diện với những lo lắng hay phiền muộn nào? Bạn cần làm gì để tự nhắc nhở mình tiếp tục dâng những nan đề ấy lên cho Chúa? Lạy Chúa, cảm tạ Ngài đã nghe lời cầu xin của con. Xin ban cho con sự bình an, vì con biết mình có thể giao phó mọi nan đề trong cánh tay yêu thương quyền năng của Ngài. Ê-xê-chi-ên 11–13; Gia-cơ 1 Dù hoàn cảnh cụ thể không được ghi rõ, nhưng hoạn nạn của vua Đa-vít trong Thi Thiên 6 thì rất rõ ràng: “Lạy Đức Giê-hô-va, xin thương xót con vì con mòn mỏi; Lạy Đức Giê-hô-va, xin chữa lành con vì xương cốt con run rẩy. Đức Giê-hô-va ôi! Linh hồn con vô cùng bối rối; Lạy Chúa, cho đến khi nào Chúa mới chữa lành cho con?” (c.2-3). Sự nặng nề của hoàn cảnh cũng được bày tỏ trong câu 6-7: “Con kiệt sức vì than thở… Mắt con hoen mờ vì buồn thảm”. Từ những đau đớn và tro tàn của khốn khổ, vua Đa-vít cất lên lời cầu nguyện (c.4-5), Chúa đã lắng nghe và nhậm lời (c.8-9). Nguyên tắc tương tự cũng được tìm thấy trong I Sa-mu-ên 1. An-ne, người đàn bà hiếm muộn và đầy đau buồn, đã kêu cầu Chúa (c.10). Ngài đã nhậm lời (c.17, 20), và bà ngợi khen sự nhân từ của Ngài (2:1-10). Khi chúng ta gặp hoạn nạn, nản lòng hay lo lắng, chúng ta có thể đến với Chúa trong sự cầu nguyện và tin chắc rằng Ngài lắng nghe và sẽ đáp lời theo ý muốn tốt lành của Ngài. Arthur Jackson https://vietnamese-odb.org/RpX
Monica Brands II Ti-mô-thê 2:8-13 Nếu chúng ta đã chết với Ngài, thì cũng sẽ sống với Ngài. II Ti-mô-thê 2:11 Bác sĩ Christian Ntizimira được Chúa kêu gọi chăm sóc cho những bệnh nhân trong giai đoạn cuối đời tại những vùng khó khăn ở quê hương Rwanda của ông. Nhiều đồng nghiệp không hiểu giá trị của công việc ấy, vì họ cho rằng “những bệnh nhân đó đã vô vọng rồi”. Nhưng Ntizimira nhận ra rằng đối với bệnh nhân và gia đình họ, sự hiện diện của ông đã “nhen lại niềm hy vọng khi mọi thứ tưởng chừng như chấm hết”. Ntizimira được khích lệ trong công việc bởi ông tin rằng sự chết và sự sống lại của Chúa Jêsus có thể thay đổi cách chúng ta đối diện với cái chết, vì “sự chết của Đấng Christ chính là nguồn sự sống”. Trong II Ti-mô-thê, sứ đồ Phao-lô làm chứng rằng Chúa Jêsus “đã tiêu diệt sự chết, dùng Tin Lành làm sáng tỏ sự sống và sự bất diệt” (1:10). Lẽ thật này đã thay đổi cách Phao-lô nhìn nhận sự chịu khổ của mình. Dù đang bị giam cầm và đối diện với án tử hình (2:9), sự sống lại của Chúa Jêsus giúp ông vững lòng trong sự kêu gọi của mình để đem mọi người đến với sự cứu rỗi trong Đấng Christ (c.10). Vì “nếu chúng ta đã chết với Ngài, thì cũng sẽ sống với Ngài; Nếu chúng ta chịu gian khổ, thì sẽ cùng cai trị với Ngài” (c.11-12). Đồng chết với Chúa Jêsus không chỉ nói đến cái chết thể xác của người tín hữu, mà còn là sự chết về mặt thuộc linh đối với tội lỗi. Phao-lô giải thích trong thư Rô-ma rằng: phép báp-têm là hình ảnh cho sự hiệp một của chúng ta với Chúa, qua sự đồng chết và đồng sống lại với Ngài bởi Thánh Linh (Rô-ma 6:4-8). Vì Đấng Christ sống trong chúng ta, nên ngay cả khi đối diện với nỗi kinh hoàng của sự chết, chúng ta vẫn có thể sống cuộc đời sáng danh Ngài. Bạn đã từng thấy hy vọng xuất hiện một cách bất ngờ chưa? Người tin Chúa như chúng ta cần làm gì để làm chứng về sự sống lại của Đấng Christ? Lạy Chúa nhân từ, xin giúp con dạn dĩ làm chứng về tình yêu thương và niềm hy vọng trong Chúa Jêsus cho người khác. Ê-xê-chi-ên 8–10; Hê-bơ-rơ 13 Sứ đồ Phao-lô khích lệ Ti-mô-thê hãy chịu khổ vì Tin Lành (II Ti-mô-thê 2:3) và nhắc ông “nhớ rằng Đức Chúa Jêsus Christ… đã sống lại từ cõi chết” (c.8). Niềm tin Cơ Đốc được đặt nền tảng trên sự chết và sự sống lại của Đấng Christ. Phao-lô cũng nhắc rằng những ai chịu khổ vì danh Chúa sẽ được đồng cai trị với Ngài, nhưng ai chối bỏ Ngài trong lúc bị bắt bớ thì Ngài cũng sẽ chối họ (c.12; xem Ma-thi-ơ 10:22, 32-33; Hê-bơ-rơ 10:38-39). Chúng ta có thể chịu khổ vì cớ Đấng Christ, vì Ngài là Đấng thành tín. Ngay cả khi lòng trung tín của chúng ta không đủ mạnh mẽ hay bền bỉ, Ngài vẫn luôn thành tín: “Nếu chúng ta thất tín, thì Ngài vẫn thành tín; Vì Ngài không thể tự chối bỏ mình được” (II Ti-mô-thê 2:13). Ngay cả khi đối diện với sự chết, chúng ta vẫn có thể làm chứng về Chúa Jêsus, bởi vì “Đấng đã kêu gọi [chúng ta] là thành tín” (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:24). K.T. Sim https://vietnamese-odb.org/RpW
Marvin Williams Châm Ngôn 12:21-28 Sự lo âu trong lòng làm cho con người suy sụp, nhưng một lời lành khiến lòng vui vẻ. Châm Ngôn 12:25 Liệu tám phút có thể thay đổi cuộc đời một con người không? Trong một thế giới ngày càng thiếu vắng sự gắn bó chân thành, tác giả Jancee Dunn cho rằng một cuộc gọi chỉ vỏn vẹn tám phút cũng có thể giúp ta tái kết nối với nhau. Cô tin rằng những cuộc gọi ngắn như vậy có thể giúp chúng ta duy trì mối liên hệ với gia đình và bạn bè. Các nghiên cứu cho thấy gọi điện cho nhau vài lần mỗi tuần giúp giảm trầm cảm, cô đơn và lo âu. Dunn cũng trích dẫn nghiên cứu của những chuyên gia khác, khẳng định rằng một vài thay đổi nhỏ trong mối liên hệ có thể tác động sâu sắc đến sức khỏe tinh thần của chúng ta và cả người khác. Điều này cũng được nói đến trong Châm Ngôn 12:25: “Sự lo âu trong lòng làm cho con người suy sụp, nhưng một lời lành khiến lòng vui vẻ”. Trong câu này, “lo âu” nói đến phản ứng cảm xúc của con người khi gặp chuyện đe dọa đến sự bình an của họ. Nỗi lo ấy cũng có thể bắt nguồn từ nỗi sợ hãi và bất an về tương lai. Đối với Cơ Đốc nhân, những lời an ủi và khích lệ có thể biến lo âu thành vui mừng, và mang đến sự sống thật (c.28). Lời ấy cũng giúp định hướng, để chúng ta cẩn trọng trong việc chọn bạn hữu (c.26). Chúng ta hãy xin Chúa bày tỏ cho mình biết ai là người đang cần “cuộc gọi tám phút” từ mình để nói những lời khích lệ trong Lời Chúa. Dù ngắn ngủi, nhưng hành động kết nối đơn sơ ấy có thể trở thành tia sáng Chúa dùng, để xua tan gánh nặng, sưởi ấm một ngày ảm đạm và đem đến hy vọng cùng sự chữa lành cho người khác. Hôm nay bạn có thể dùng Lời Chúa để khích lệ ai? Tại sao việc lan tỏa niềm hy vọng nơi Đấng Christ cho người khác lại quan trọng đến vậy? Lạy Chúa Jêsus, xin giúp con nói những lời nhân lành và mang hy vọng đến với những người đang lo lắng và cô đơn. Ê-xê-chi-ên 5–7; Hê-bơ-rơ 12 Dù một số phần trong sách Châm Ngôn (như ch.3–5; 31:10-31) rõ ràng có sự liên hệ, nhưng phần lớn các câu châm ngôn lại đứng độc lập. Vì vậy, chúng ta cần đọc chậm lại để suy ngẫm. Các câu trong Châm Ngôn 12:21-28 gồm tám lời dạy tưởng chừng không liên quan, nhưng thực ra lại có một chủ đề chung. Bảy trong tám câu châm ngôn này sử dụng hình thức song song đối nghĩa – tức là một lẽ thật được nêu ra rồi đối chiếu với điều ngược lại: người công chính đối lập với kẻ ác (c.26), kẻ lười biếng với người siêng năng (c.27), môi dối trá với người hành động chân thật (c.22). Câu cuối cùng của chương sử dụng hình thức song song đồng nghĩa – xây dựng thêm trên lẽ thật đã nêu: “Trên đường công chính có sự sống, bước đi trên lối nó không có sự chết” (c.28). Khi chúng ta đọc và suy ngẫm những câu châm ngôn này, sự khôn ngoan trong đó sẽ gây dựng đời sống chúng ta. Và chúng ta có thể xin Chúa chỉ dẫn để biết ai là người đang cần được khích lệ từ Lời Ngài. Tim Gustafson https://vietnamese-odb.org/RpV
James Banks Lu-ca 14:25-35 Ai trong các ngươi muốn xây một cái tháp mà trước hết không ngồi tính phí tổn…? Lu-ca 14:28 Có một con đường ở North Carolina mà người dân địa phương gọi là “Con Đường Chẳng Đi Về Đâu”, nhưng tên chính thức của nó là Lakeview Drive. Đó là một đoạn đường dài hơn 9 km, nhìn ra Hồ Fontana trong Vườn Quốc gia Dãy Smoky Mountains gần Bryson City. Sau khi đi xuyên qua một đường hầm dài hơn 360 mét được khoét từ sườn núi đá, con đường đột ngột kết thúc. Chính phủ đã chi hàng triệu đô-la để xây dựng, nhưng dự án bị đình chỉ do những lo ngại về môi trường được phát hiện sau đó. Chúa Jêsus vốn làm nghề thợ mộc, và Ngài đã chia sẻ một ẩn dụ về xây dựng, để nói đến việc cân nhắc cái giá phải trả khi theo Ngài. “Ai trong các ngươi muốn xây một cái tháp mà trước hết không ngồi tính phí tổn để biết mình có đủ tiền hoàn thành nó chăng?” (Lu. 14:28). Sau đó, Ngài kể câu chuyện về một vị vua cân nhắc những tổn thất và thiệt hại trước khi ra trận. Cả hai ẩn dụ đều nhấn mạnh cùng một điều. Khi Chúa Jêsus dạy dỗ “đoàn dân đông cùng đi” với mình (c.25), Ngài muốn họ hiểu rằng việc thật lòng tin cậy và đi theo Ngài đòi hỏi họ phải trả giá. Nếu chúng ta theo Chúa Jêsus chỉ vì những điều Ngài có thể làm cho mình, thì đó là “con đường chẳng đi về đâu”. Nhưng khi chúng ta theo Chúa vì chính Ngài, mỗi ngày vác “thập tự giá” theo Ngài (c.27), từ bỏ tội lỗi và cái tôi ích kỷ để sống vì Ngài và vương quốc thiên đàng, thì mọi sự sẽ đổi thay. Cái giá phải trả cần được cân nhắc, nhưng Ngài là Đấng hoàn toàn xứng đáng để chúng ta trao trọn cuộc đời. Bạn đã phải trả cái giá nào để tin cậy bước theo Chúa Jêsus? Tại sao không có điều gì quý giá hơn việc thật sự biết Chúa và bước đi theo Ngài? Lạy Cứu Chúa yêu dấu, xin giúp con sống vì danh Ngài hơn bất kỳ điều gì khác. Không điều gì có thể sánh được với ơn phước khi con được biết Ngài! Ê-xê-chi-ên 3–4; Hê-bơ-rơ 11:20-40 Chúa Jêsus đã dạy rằng để theo Ngài, con người cần phải từ bỏ chính mình và chấp nhận hy sinh (Lu. 14:26-27, 33; 9:23-24). Đấng Christ muốn chúng ta suy xét nghiêm túc về sự cam kết trọn vẹn mà Ngài đòi hỏi. Việc “ghét” (14:26) gia đình và chính mạng sống mình là cách nói phóng đại, nhằm nhấn mạnh rằng chúng ta không được đặt bất kỳ ai lên trên Chúa Jêsus (Mat. 10:37-39). Viên quan giàu có đã không chấp nhận trả cái giá đó (Lu. 18:18-24). Trong khi đó, Phi-e-rơ đã thốt lên những lời tỏ rõ cái giá rất đắt của việc làm môn đồ Chúa rằng: “chúng con đã bỏ tất cả để theo Thầy” (c.28, BD2011). Có cái giá phải trả để theo Chúa, nhưng những ai cam kết theo Ngài sẽ được ban phước và “được sự sống đời đời trong đời sau” (c.30). K.T. Sim https://vietnamese-odb.org/RpU
Amy Boucher Pye Nhã Ca 1:1-6 Hỡi các thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, tôi đen nhưng xinh đẹp. Nhã Ca 1:5 Trong thì giờ tĩnh nguyện hàng ngày, Julie bắt đầu ngân nga lời Kinh Thánh. Cô nói: “Khi tôi hát lên, tấm lòng và tâm trí tôi bắt đầu thực sự tin và làm theo những lời mình hát!” Khi xướng ca Lời Chúa, Julie mong lẽ thật của Ngài sẽ soi rọi trên những điều mà cô còn thấy mặc cảm, như giọng nói và chiều cao của mình. Julie ngân nga Nhã Ca 1:5: “Tôi đen nhưng xinh đẹp”. Trong bối cảnh nông thôn xưa kia, một làn da rám nắng không được xem là xinh đẹp. Và khi cô cất tiếng hát những lời này, Chúa đã thay đổi suy nghĩ của cô. Cô chợt nhận ra: “Chúa yêu tôi ngay cả khi tôi không hoàn hảo”. Julie đang ngân nga những lời thơ hay tuyệt từ một sách văn thơ khôn ngoan của Cựu Ước. Một số người xem Nhã Ca là ẩn dụ về tình yêu thương của Chúa dành cho dân sự Ngài, nhiều người khác lại xem sách này là lời tán dương tình yêu hôn nhân. Khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp của sự cam kết mà đôi lứa dành cho nhau, chúng ta có thể hòa lòng cùng bạn bè của họ mà nói rằng: “Chúng ta cùng vui mừng hớn hở với anh, cùng ca ngợi tình anh, nồng nàn hơn rượu” (c.4). Dù chúng ta hiểu những lời xưa kia theo cách nào, thì giống như Julie, chúng ta vẫn có thể khẳng định rằng Chúa yêu thích những người mà Ngài đã chọn. Như lời Ngài đã phán trong một sách Cựu Ước khác: “Vì Ta xem con là quý báu và đáng chuộng. Chính Ta đã yêu con” (Ês. 43:4). Bên cạnh việc hát, có những cách mới mẻ nào khác giúp bạn đến gần hơn với Lời Chúa? Làm thế nào để bạn luôn sống trong nhận thức rằng Chúa yêu thương bạn? Lạy Chúa là Đấng Tạo Hóa, Ngài đã tạo dựng nên con theo hình ảnh của Ngài, và Ngài phán rằng Ngài yêu con. Xin giúp con học biết lẽ thật này bằng cả tâm trí và tấm lòng, để con sống bày tỏ tình yêu thương của Ngài cho người khác. Ê-xê-chi-ên 1–2; Hê-bơ-rơ 11:1-19 Trong nhiều thế kỷ, các học giả đã tranh luận về cách đọc sách Nhã Ca. Một số người cho rằng sách này là một ẩn dụ mô tả tình yêu thương giữa Đức Chúa Trời và tuyển dân Y-sơ-ra-ên của Ngài. Những người khác lại cho rằng đó là hình ảnh ẩn dụ về tình yêu thương của Đấng Christ và Hội Thánh. Một số khác nữa đề xuất rằng đây là câu chuyện tôn vinh tình yêu giữa vợ và chồng. Cả ba cách hiểu này đều khẳng định một quan điểm sâu sắc về tình yêu thương, và góp phần giải thích lý do sách Nhã Ca được bao gồm trong Kinh Thánh. Xuyên suốt bài ca này, chúng ta được nhắc nhở về vẻ đẹp của tình yêu, là điều cuối cùng sẽ dẫn chúng ta đến sự nhận biết về tình yêu lớn lao mà Chúa dành cho mình. Bill Crowder https://vietnamese-odb.org/RpK
Hy Vọng Nơi Chúa

Hy Vọng Nơi Chúa

2025-10-25--:--

Winn Collier Ca Thương 3:22-33 Đức Giê-hô-va là sản nghiệp tôi, nên tôi hi vọng nơi Ngài. Ca Thương 3:24 Khi đất nước rơi vào nội chiến, chính quyền đã bắt ép một người đàn ông phải nhập ngũ. Nhưng anh phản đối: “Tôi không muốn góp phần hủy hoại quê hương mình”. Thế là anh rời khỏi đất nước. Tuy nhiên, vì không có thị thực hợp lệ, anh bị kẹt lại ở sân bay của một quốc gia khác. Suốt nhiều tháng trời, nhân viên sân bay đã cho anh thức ăn, và hàng ngàn người theo dõi anh qua Twitter khi anh lang thang trong các nhà ga, đan khăn len và cố bám víu chút hy vọng le lói. Khi biết đến tình cảnh của anh, một cộng đồng tại Canada đã quyên góp tiền, tìm việc làm và cho anh một mái nhà. Sách Ca Thương ghi lại tiếng kêu khóc của tiên tri Giê-rê-mi khi ông chờ đợi Chúa chấm dứt hình phạt trên tội lỗi của dân mình. Ông trông cậy nơi sự thành tín đời đời của Chúa và tin rằng: “Đức Giê-hô-va nhân từ với những ai trông đợi Ngài” (Ca Thương 3:25). Ngay cả khi hoạn nạn bủa vây đến nỗi chẳng thấy lối thoát, hay lắm lúc phải hạ mình chịu sửa phạt, dân sự Chúa vẫn có thể bền lòng tin cậy vào một sự thật rằng họ “có thể còn hi vọng” (c.29). Những ai thuộc về Ngài có thể kinh nghiệm niềm hy vọng từ chính Ngài, như có chép: “Thật tốt cho người yên lặng trông chờ ơn cứu rỗi của Đức Giê-hô-va” (c.26). Khi không có câu trả lời và lối thoát trước mắt, chúng ta hãy cứ hy vọng nơi Chúa, Đấng đã bày tỏ sự thành tín của Ngài hết lần này đến lần khác để cứu giúp chúng ta. Khi nghĩ đến việc hy vọng nơi Chúa, tình huống nào hiện lên trong tâm trí bạn? Trong hoàn cảnh ấy, vì sao việc chờ đợi Chúa lại khó khăn và Ngài đã gặp gỡ bạn như thế nào? Lạy Chúa, xin giúp con kiên nhẫn trông đợi Ngài làm thành ý muốn Ngài trong đời sống con. Ca Thương 3–5; Hê-bơ-rơ 10:19–39 Với nỗi buồn sâu sắc, tiên tri Giê-rê-mi đã viết về sự hủy diệt thành Giê-ru-sa-lem bởi tay Ba-by-lôn (năm 586 TCN) và cảnh dân sự bị lưu đày rằng: “Ôi! Xưa là thành đông đúc, nay ngồi quạnh quẽ một mình!… Giu-đa bị lưu đày khốn khổ, chịu nô dịch nặng nề” (Ca Thương 1:1, 3). Ông được kêu gọi làm tiên tri trong thời trị vì công chính của vua Giô-si-a (Giê. 1:1-3). Dù vua Giô-si-a đã thực hiện nhiều cải cách, nhưng dân sự chẳng mấy chốc lại quay về thờ hình tượng. Giê-rê-mi đã nói tiên tri rằng Y-sơ-ra-ên sẽ bị lưu đày 70 năm và sau đó sẽ được trở về. Dù phải chịu nhiều đau khổ trong chức vụ của mình, ông vẫn bày tỏ niềm hy vọng và lòng tin nơi Chúa, vững vàng tin cậy rằng: “Nhờ lòng nhân từ của Đức Giê-hô-va mà chúng ta không bị tiêu diệt, lòng thương xót của Ngài không bao giờ dứt. Mỗi buổi sáng, lòng thương xót của Chúa tươi mới luôn, sự thành tín Ngài lớn biết bao” (Ca Thương 3:22-23). Chúng ta cũng có thể chia sẻ niềm hy vọng lớn lao này khi kiên nhẫn chờ đợi Chúa và tin cậy Ngài sẽ hành động trong đời sống mình. Alyson Kieda https://vietnamese-odb.org/RpJ
Lisa M. Samra Áp-đia 1:4-9, 12-13 Ngươi chẳng nên hả hê nhìn anh em ngươi trong ngày tai họa của nó. Áp-đia 1:12 Vào tháng 8 năm 2023, một trong những trận cháy rừng thảm khốc nhất trong lịch sử Hoa Kỳ đã thiêu rụi thị trấn Lahaina, Hawaii, cướp đi sinh mạng của 99 người và phá hủy hơn 2.000 tòa nhà. Khi còn chưa kịp phục hồi, cư dân nơi đây lại phải chịu thêm đau khổ khi bị những kẻ trục lợi cướp bóc nhà cửa, và nhiều người tham lam tìm cách thâu tóm đất đai. Dân Ê-đôm đã lợi dụng hoàn cảnh đau khổ của người khác để tham lam bất chính, và đó là lý do Chúa công bố sự phán xét nặng nề trên họ (Ê-xê-chi-ên 35:5). Tiên tri Áp-đia đã cảnh báo dân Ê-đôm, kẻ thù của dân Y-sơ-ra-ên, rằng Chúa sẽ thi hành sự phán xét, vì họ đã lợi dụng vị trí địa lý thuận lợi (Áp-đia 1:3), tài sản tích lũy (c.6), sự liên minh với các nước khác (c.7), sự khôn ngoan (c.8), và cả sức mạnh quân sự (c.9) để chèn ép những người yếu thế. Áp-đia cũng quở trách họ vì đã hả hê khi dân Y-sơ-ra-ên bị lưu đày. Thay vì tỏ lòng thương xót, dân Ê-đôm đã cướp bóc nhà cửa người Y-sơ-ra-ên và đi nghênh ngang qua những thành bị đánh bại (c.12-13). Dù cư dân Lahaina phải chứng kiến những hành động đáng lên án, nhưng họ cũng được kinh nghiệm tấm lòng nhân ái khi các hội thánh trở thành trung tâm cứu trợ, cung cấp chỗ ở, thức ăn và nhu yếu phẩm cho người gặp nạn. Khi thấy người khác đau khổ, chúng ta cũng đối diện với sự lựa chọn tương tự. Chúng ta sẽ tìm cách trục lợi từ nỗi đau của họ, hay chọn vâng lời Chúa, bày tỏ lòng nhân từ và rộng lượng, như các hội thánh tại Lahaina đã làm? Bạn đã bao giờ bị cám dỗ để lợi dụng nỗi đau của người khác mà tìm lợi cho mình chưa? Tình yêu thương của Chúa thôi thúc bạn bày tỏ lòng nhân ái ra sao? Lạy Chúa, xin giúp con mở rộng vòng tay để nâng đỡ những ai đang chịu tổn thương. Ca Thương 1–2; Hê-bơ-rơ 10:1–18 Sự phản bội của Ê-đôm đối với Y-sơ-ra-ên còn đau đớn hơn cả việc một quốc gia lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của quốc gia khác (Áp-đia 1:1-13). Dân Ê-đôm là hậu duệ của Ê-sau – anh trai sinh đôi của Gia-cốp (Sáng-thế Ký 25:24-30). Sự căng thẳng giữa hai anh em này kéo dài suốt cuộc đời họ, đỉnh điểm là việc Gia-cốp cướp lấy quyền trưởng nam và phước lành từ cha mình – vốn thuộc về Ê-sau (25:29-34; 27:1-41). Sự căng thẳng trong gia đình ấy tiếp tục ảnh hưởng đến con cháu của Gia-cốp (tức dân Y-sơ-ra-ên) trong nhiều thế kỷ (Dân-số Ký 20:14-21). Lời tiên tri trong sách Áp-đia lên án Ê-đôm vì đã vui mừng và lợi dụng sự đoán phạt của Chúa trên dân Giu-đa để áp bức họ (Áp-đia 1:12-14; A-mốt 1:11-12). Khi ai đó đang chịu đau khổ, chúng ta hãy tôn vinh Chúa bằng cách bày tỏ lòng nhân từ và rộng lượng – chứ không phải bằng sự lợi dụng. Jed Ostoich https://vietnamese-odb.org/RpH
Adam Holz I Phi-e-rơ 1:3-9, 13 Bởi lòng thương xót dư dật của Ngài, chúng ta được tái sinh để có một hi vọng sống, nhờ sự sống lại từ cõi chết của Đức Chúa Jêsus Christ. I Phi-e-rơ 1:3 Thuở nhỏ, mỗi độ thu về, bà tôi lại mua quyển cẩm nang mùa Giáng Sinh của trung tâm mua sắm tổng hợp JCPenney. Tôi thường không kìm nổi niềm háo hức, và lén lấy xem để đắm mình trong những bức hình minh họa tuyệt đẹp. Ngày nay, những hình ảnh như vậy xuất hiện hàng ngày trên điện thoại, được chọn lọc bằng thuật toán, và cá nhân hóa phù hợp với sự yêu thích của chính chúng ta. Thật dễ để bị cuốn vào thế giới ấy. Gần đây, các chuyên gia đã đặt tên cho hiện tượng này là “dreamscrolling”, nghĩa là lướt điện thoại và chìm đắm trong cuộc sống lý tưởng trên mạng. Một khảo sát của OnePoll cho thấy trung bình người sử dụng điện thoại ở Mỹ dành hơn hai giờ mỗi ngày để lướt điện thoại! Những hình ảnh đó khiến lòng ta xao xuyến, thuyết phục ta hy vọng và tin tưởng rằng: chỉ cần có được thứ này, thì tôi sẽ thỏa mãn. Nhưng trái ngược với điều đó, Kinh Thánh kêu gọi chúng ta đừng bám víu vào của cải vật chất. I Phi-e-rơ 1:3-4 chép rằng: “Bởi lòng thương xót dư dật của Ngài, chúng ta được tái sinh để có một hi vọng sống, nhờ sự sống lại từ cõi chết của Đức Chúa Jêsus Christ, và hưởng một cơ nghiệp không hư hoại, không hoen ố, không suy tàn”. Phi-e-rơ cho thấy sự đối lập giữa những khao khát tạm bợ của con người với điều duy nhất có thể mang đến sự thỏa mãn thật: ấy là đặt hy vọng nơi ân điển của Chúa. Sau đó, ông còn nói thêm: “Hãy… đặt hi vọng hoàn toàn vào ân điển sẽ ban cho anh em khi Đức Chúa Jêsus Christ hiện ra” (c.13). Thật ra, chính tôi cũng hay lướt điện thoại. Nhưng tôi vẫn đang cầu xin Chúa giúp mình từng bước học cách nương dựa nơi niềm hy vọng vượt trên vật chất, để đặt trọn lòng khao khát của tôi nơi Ngài. Bạn đang thực sự tìm kiếm điều gì mỗi khi lướt điện thoại? Điều gì đang chiếm lấy tấm lòng bạn? Cha ơi, con đang sống giữa thế gian đầy những hứa hẹn hão huyền. Nhưng con biết hy vọng nơi Ngài sẽ không bao giờ làm con thất vọng. Xin giúp con biết đặt trọn niềm hy vọng nơi Ngài hôm nay. Giê-rê-mi 51–52; Hê-bơ-rơ 9 Sứ đồ Phi-e-rơ đã viết thư để khích lệ những tín hữu đang sống rải rác khắp các tỉnh của La Mã (I Phi. 1:1), nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ. Họ phải đối diện với sự bắt bớ từ ba phía: chính quyền La Mã dưới thời hoàng đế Nê-rô độc ác (AD 37–68), người Do Thái, và cả gia đình của chính họ. Người La Mã bắt bớ vì các tín hữu từ chối tôn thờ hoàng đế như một vị thần và không chịu thờ cúng tại các đền thờ ngoại giáo. Những tín hữu cũng khước từ những giá trị và lối sống vô luân của nền văn hóa ấy. Phi-e-rơ nhắc họ hãy vững lòng (c.6-9), vì họ có một “hi vọng sống” (c.3) và một “cơ nghiệp không hư hoại” (c.4). Nhà thần học Ray Stedman viết về I Phi-e-rơ 1:3-5 rằng: “Đây là niềm hi vọng về thiên đàng, một nơi trong cõi đời đời đã được dành sẵn cho những người tin Chúa Jêsus… Chúng ta không chỉ có một hi vọng sống cho tương lai và cõi đời đời, mà còn có quyền năng ở hiện tại – ngay lúc này, ngay hôm nay!” Khi chúng ta tập trung vào Đấng Christ và hướng sự khao khát về Ngài, những điều thuộc về thế gian này sẽ dần mất đi sức hút. Alyson Kieda https://vietnamese-odb.org/RpG
Tim Gustafson Giăng 20:18-20, 30-31 Khi thấy Chúa, các môn đồ thật vui mừng. Giăng 20:20 Vào một ngày Chúa Nhật đầu đông năm 1941, sau thì giờ thờ phượng tại ngôi nhà thờ nhỏ miền Bắc, cha tôi cùng các anh chị em đi bộ về nhà trước, còn ông nội tôi thì nán lại thêm một lúc. Khi ông bước lên ngọn đồi đầy tuyết để về lại ngôi nhà giữa trang trại, nước mắt ông tuôn rơi vì nghe tin Trân Châu Cảng bị đánh bom. Điều đó có nghĩa là các con trai ông, bao gồm cả cha tôi, sẽ phải ra trận. Cha tôi vẫn còn nhớ như in ký ức sống động ấy. Tâm lý học gọi những sự kiện đó là “hồi ức sống động”, là những khoảnh khắc in sâu vào tâm trí như được “chụp lại”. Hãy nghĩ đến thảm họa 11/9, hoặc ngày mất của một người thân, hoặc khoảnh khắc vui mừng nhất của bạn. Hãy tưởng tượng ký ức của các môn đồ theo Chúa Jêsus. Họ đã chứng kiến hết phép lạ này đến phép lạ khác. Nhưng rồi bi kịch ập đến: Con Đức Chúa Trời bị bắt và bị đóng đinh. Nhưng rồi Ngài phục sinh! Ma-ri Ma-đơ-len vội vã báo tin với các môn đồ rằng “bà đã thấy Chúa” (Gi. 20:18). Dù vậy, các môn đồ vẫn trốn trong sợ hãi. Họ chưa tin ngay (Lu. 24:11), cho đến khi “Đức Chúa Jêsus đến đứng giữa họ” (Gi. 20:19). Lúc đó, “các môn đồ thật vui mừng” (c.20). Sứ đồ Giăng đã ghi lại những khoảnh khắc đó: “Nhưng các việc nầy được ghi chép để anh em tin rằng Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời, và để khi anh em tin thì nhờ danh Ngài mà được sự sống” (c.31). Đó là những “hồi ức sống động” có giá trị đời đời. Những “hồi ức sống động” nào vẫn còn in sâu trong tâm trí bạn? Quyết định thuộc linh quan trọng nhất trong đời bạn là gì, và quyết định đó có ý nghĩa như thế nào? Lạy Cha, cảm tạ Ngài đã luôn ở cùng chúng con trong mọi khoảnh khắc dù lớn hay nhỏ. Và đặc biệt hơn hết, cảm tạ Cha vì sự kiện vĩ đại nhất lịch sử, là sự phục sinh của Con Ngài. Giê-rê-mi 50; Hê-bơ-rơ 8 Phúc Âm Giăng chứa nhiều khoảnh khắc “sống động” giúp chúng ta hiểu rõ về thân vị và sứ mạng của Chúa Jêsus. Có lẽ vì thế mà Giăng mời gọi chúng ta “hãy đến xem” bốn lần trong sách của ông (Gi. 1:39; 1:46; 4:29; 11:34). Khi các nhân vật trong câu chuyện được mời gọi đến xem, người đọc cũng được mời gọi chú ý. Sứ đồ Giăng khắc họa một cách rõ nét thân vị và công việc của Chúa Jêsus để chúng ta “tin rằng Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời, và để khi [chúng ta] tin thì nhờ danh Ngài mà được sự sống” (Gi. 20:31). Sự sống mà Ngài ban là sự sống đời đời, như có chép: “Hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời” (Gi. 3:16). Sự phục sinh của Đấng Christ là sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử, và qua đó những ai tin Ngài sẽ sống đời đời với Ngài. Bill Crowder https://vietnamese-odb.org/RpF
loading
Comments